Hoàng Phương
Tiểu sử/ profile "Hoàng Phương"
Ca sĩ/ ban nhạc: Hoàng Phương
Tên thật/ tên đầy đủ: Nguyễn Kim Hoàng
Ngày sinh/ Năm sinh/ thành lập: 1943
Nước/ quốc gia: Việt Nam
Nhóm/đại diện: Ca sĩ Tự Do
Kim Hoàng học trường Trương Định ( nay vẫn là Trương Định _thị xã Gò Công). học chữ nhưng lại mê nhạc. hình như anh có năng khiếu âm nhạc từ nhỏ. Anh tìm đến cây đàn violon, mày mò kéo theo ý thích của mình. tự học đàn violon là điều rất khó khăn, anh phải “tầm thầy học đạo”, thế là nhạc sĩ Lê Vinh, tác giả của bài “người em xóm đạo” trở thành người thầy âm nhạcđầu tiên của anh. thầy không có nhiều thời gian để dậy kĩ càng cho anh., anh phải tự học. học đến quên cả học chữ, hết năm lớp 11, anh ôm đàn về nhà, bỏ học ở trường phổ thông. nghiệp cầm ca đến với anh lúc nào không hay. Anh ít lên sân khấu. do hồi nhỏ bị một cái mụn lớn ở mắt cá, thầy thuốc hút mủ không khéo bị rút gân, thành ra chân đi cà thọt. nhưng anh lại học thêm đàn guitare, rồi học thêm nghề sửa đồng hồ của cha để kiếm sống. năm 1965, lúc anh mới 23 tuổi, anh cưới một người con gái tại thị xã Gò Công rồi mở tiêm sửa đồng hồ tại chợ. 3 năm sau ( năm 1968) , lúc anh 25 tuổi, nhạc phẩm đầu tay của anh ra đời và anh trở thành người nổi tiếng, đó là tác phẩm “ hoa sứ nhà nàng” . sau khi đài sài gòn phát đi, những ca khúc ngọt ngào của anh luôn đặt trên môi thanh niên vùng địch tạm chiếm: “đêm đêm ngửi mùi hương. Mùi hoa sứ nhà nàng…hương nồng hoa tình ái…nhà nàng cách nhà tôi, màu hoa trắng ngọt ngào…” sau thành công của “ hoa sứ nhà nàng” anh cho ra đời một loạt tác phẩm: “ mùa nhạn trắng”, “đàn thương cô quán trong làng”, “ anh về đẹp tình quê hương”, “ nhớ mẹ”, “ anh hai về làng”, “sông quê tình nhớ”,. Và viết tặng người yêu của mình : “ tình em quán phượng”. những ca khúc của anh đều kí tên Hoàng Phương và được các trung tâm băng nhạc thời ấy phát hành.
Ca từ trong ca khúc của anh phần lớn đề cập đến quê hương Gò Công yêu dấu của anh, đến tình yêu đôi lứa, đến những người thân yêu. Anh không giấu diếm khi viết về Phượng - người mà anh đem lòng yêu mến. anh khôn hề đưa cuộc chiến vốn đang sôi bỏng vào âm nhạc của mình. Anh không quan tâm, hay nói đúng hơn anh né tránh điều đó. Anh mở tiệm vàng, rồi từ vàng nuôi nhạc, nhạc nuôi tâm hồn anh.
Sau năm 1975, anh mở tiệm sửa chữa đồng hồ. công việc ấy đòi hỏi sự tỉ mẫn và tốn nhièu thời gian, nhưng bù lại, anh tích luỹ được vốn, để sau đó mở lại tiêm vàng Kim Hoàng và sau đó mở tiếp tiệm vàng Toàn Tân ngay trong nhà lông chợ. niềm đam mê âm nhạc lại thúc giục anh ôm đàn tìm giai điệu. anh sáng tác không mệt mỏi. hàng loạt bài hát về quê hương Tiền Giang ra đời: Chiều hè bãi biển (1986), chung một dòng sông ( 1986), Gò Công hồng trang sử (1986), Biển thức ( 1986), về nông trường Phú Đông (1986), Tiếng chim mùa xuân (1986), Nhà em đó –bên kia sông (1986), Biển Gò Công khi em đến (1986), chiều xuân qua thị trấn Gò Công (1986), Ánh mắt quê hương(1986), Khung trời quê (1987), khúc Cachuisa hát ở bên sông Tiền (1987), mỹ tho thành phố cội nguồn (1987), Biển tím (1987), Đôi mắt quê hương (1987), Mẹ Gò Công (1988), Chuyện tình hoa muống biển (1988), hẹn em bên cửa sông Tiền (1992), Hương sơ ry (1993), Nhớ biển Gò Công (2001), Xa rồi Gò Công(2002), chuyến xe Tiền Giang (2002)…đủ thấy anh yêu quý quê hương này đến như thế nào.
Như hầu hết các ca nhạc sĩ khác, anh vẫn dành cho tình yêu lứa đôi nhưng giai điệu mượt mà. “ Hoa sứ nhà nàng” được viết năm 1968 và cớ sức sống lâu bền được anh tiếp tục khai thác, để có thêm “ Hoa sứ nhà nàng II” và “ Hoa sứ nhà nàng III”. Trong những năm 90 của thế kỉ trước. những tình khúc của anh là những câu truyện dang dở, những mối tình quê, đậm đà, chân chất như chính những con người quê anh: thật thà, mặn nông, chung thuỷ: Căn nhà mộng ước (1972), Chiều mưa thứ bảy (1988), Cánh diều kỉ niệm (1988), Chiều mưa thứ bảy(1988), Gợi tình chim quyên (1990), Sông quê tình nhớ (1990), Về Trà Vinh (1991), Chiếc cầu chiều mưa(1991), Cánh thư trời xa(1992), thuyền giấy chiều mưa (1993), Chung vần trăng đợi (2000), cùng với con trai là Hoàng Tùng cho ra đời bài : Ao nhà ao bên (2000)…Anh cũng không ngần ngại khi viết về những mối tình trắc trở, những nỗi buồn cô đơn như đời thực vốn có: Tình bể dâu(2000), Xuân này anh vẫ cô đơn(1990), tình khóc (2000)…làm cho các nhạc phẩm của anh trở nên đa dạng, nhiều mầu sắc, nhiều cung bậc và đầy tâm trạng. có lẽ vì thế mà anh có mặt ở nhiều băng nhạc trong buổi hoàng hôn của nhạc tâm ca. vốn rất thịnh hành ở miên Nam nửa sau thế kỉ XX.
Hoàng Phương sáng tác như để trả nợ cuộc đời. sự trả nợ chẳng bao giờ đủ , vì thế mà anh luôn ngồi ôm đàn, ngón tay cái bị tật bẩm sinh cứ vểnh lên trên phím, mắt luôn nhắm, đầu gật gù, miệng luông ngậm điếu thuốc. điếu thuốc cũng gật gù với giai điệu, để rồi những bài hát đó từ đó mà đi vào cuộc sống.
Hào sảng và mê đắm. anh sống đời nghệ sĩ đúng nghĩa. tất cả cho sự ra dời các nhạc phẩm. với anh, nghệ thuật không song hành với kinh tế. hai tiệm vàng lần lượt bay đi, cuộc sống mỗi ngày càng trở lên cơ cực. anh lên Sài Gòn tìm đến các trung tâm băng nhạc để kiếm sống, nhưng cách kiếm sống đó không có tính bền vững. năm 2002 anh lâm bệnh.
Ngày 14 tháng 08 năm 2002 nhạc sĩ Hoàng Phương - nhạc sĩ Hoa Sứ (như bạn bè thường gọi) qua đời, để lại những tiếc thương của bạn bè và những bài ca dang dở.
Nhạc sĩ Hoa Sứ ra đi, nhưng trong phong Karaoké, các cô cậu vẫn ngân lên: Đêm đêm ngửi mùi hương- mùi hoa sứ nhà nàng…như một nhắc nhở người nhạc sĩ tài hoa bên bờ biển Đông, cuối dòng Cửu Long này.